Menu

Thông báo

preview

Tôn chỉ & Mục đích

Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng (Journal of Economic - Law and Banking - JELB) tiền thân là Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng trực thuộc Học viện Ngân hàng với hai phiên bản: Phiên bản tiếng Việt có tên là Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng, ISSN 3030-4199 và phiên bản tiếng Anh có tên là Journal of Economic and Banking Studies, ISSN 2734-9853.

Tạp chí công bố các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn đa dạng, với ưu tiên nhưng không giới hạn ở các lĩnh vực kinh tế, luật, ngân hàng, tài chính, kinh doanh, quản lý, công nghệ và giáo dục. Tạp chí hướng tới trở thành kênh giao tiếp học thuật có uy tín trên toàn cầu và là cơ sở dữ liệu tham khảo, trích dẫn cho các nghiên cứu tương lai.

Bài viết gửi đến Tạp chí được quản lý trên hệ thống trực tuyến, phản biện kín hai chiều bởi các nhà khoa học có uy tín, cùng với quy trình xét duyệt minh bạch, chặt chẽ, đảm bảo công bố kịp thời các bài báo có chất lượng theo chuẩn quốc tế.

Tạp chí kỳ vọng nhận được các nghiên cứu với các phân tích cẩn trọng dựa trên khung lý thuyết đáng tin cậy, các bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm theo thông lệ quốc tế, và có các khuyến nghị đề xuất chính sách hoặc hàm ý quản trị cho các bên liên quan.

Các bài báo vừa xuất bản

Hoàn thiện khung pháp lý cho bảo hiểm tiền gửi việt nam trong cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém
Phạm Bảo Lâm
Bản điện tử: 16/09/2025 | DOI:
Tóm tắt

Bài viết phân tích cơ sở pháp lý và thực tiễn triển khai Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) năm 2012 và những yêu cầu của việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi trong bối cảnh mới của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là yêu cầu cơ cấu lại TCTD yếu kém theo Luật Các TCTD năm 2024 và định hướng chính sách của Chính phủ trong thời gian tới. Từ đó, trên cơ sở tham chiếu kinh nghiệm quốc tế về quỹ mục tiêu, đa dạng hoá kênh đầu tư an toàn, cơ chế vay- hoàn trả của Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), bài viết chỉ ra các khoảng trống và bất cập liên quan đến cơ chế tài chính, phạm vi và công cụ tham gia xử lý TCTD, cơ chế thu phí và quỹ dự phòng nghiệp vụ, cũng như các quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ và thời hạn chi trả bảo hiểm của BHTG Việt Nam (BHTGVN). Bài viết đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật BHTG nhằm hướng tới nâng cao năng lực tài chính và tính chủ động của BHTGVN, qua đó tăng cường mức độ bảo vệ người gửi tiền, củng cố niềm tin công chúng và đóng góp thiết thực vào quá trình cơ cấu lại hệ thống TCTD.

Kế toán quản trị chi phí môi trường theo hướng tích hợp và bền vững tại các doanh nghiệp xi măng Việt Nam
Hoàng Thị Kim Ưng,Nguyễn Diệu Linh ,Nguyễn Hồng Chỉnh
Bản điện tử: 16/09/2025 | DOI:
Tóm tắt

Ngành xi măng là ngành kinh tế thiết yếu trong phát triển hạ tầng và kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, đây là ngành sản xuất thâm dụng vốn, lao động, tiêu hao nhiều năng lượng, tài nguyên và thải ra lượng lớn khí nhà kính, bụi mịn, chất thải cố định. Đồng thời, các doanh nghiệp xi măng cũng đối mặt với việc tuân thủ các quy định về chuyển đổi xanh và cam kết trung hòa carbon, dẫn tới chi phí môi trường tăng cao. Khoản mục chi phí này trở thành yếu tố quan trọng trong công tác quản trị chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xi măng. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả làm rõ thực trạng kế toán quản trị chi phí môi trường tại 20 doanh nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam. Bằng phương pháp khảo sát và phỏng vấn sâu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 1/2024 đến tháng 12/2024, nhóm tác giả lần lượt làm rõ cơ cấu chi phí môi trường, công tác xử lý và cung cấp thông tin kế toán quản trị chi phí môi trường và sự liên kết quản trị chi phí môi trường với kế toán quản trị tại các doanh nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam. Bài nghiên cứu cũng đề xuất mô hình tích hợp để kế toán quản trị chi phí môi trường theo hướng bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu chuyển đổi xanh và giảm phát thải tại các doanh nghiệp này.

Tác động của chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng đến sản lượng kinh tế Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm từ góc độ doanh nghiệp
Phạm Duy Tính
Bản điện tử: 16/09/2025 | DOI:
Tóm tắt

Nghiên cứu này xem xét tác động của chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng lên mối quan hệ phi tuyến giữa tín dụng ngân hàng và sản lượng kinh tế từ góc độ doanh nghiệp. Dữ liệu bảng không cân bằng của các doanh nghiệp niêm yết trong giai đoạn 2004-2023 được phân tích bằng mô hình tĩnh và mô hình động. Kết quả cho thấy, ở góc độ vi mô, tín dụng ngân hàng có tác động đến cả quy mô sản lượng lẫn hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp dưới dạng chữ U ngược. Điểm mới quan trọng là tác động của tín dụng ngân hàng lên sản lượng kinh tế có xu hướng tích cực hơn khi chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng được áp dụng. Điều này cho thấy chính sách này đã cải thiện hiệu quả phân bổ vốn của hệ thống ngân hàng. Hàm ý chính sách này có thể được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng để khuyến khích các ngân hàng thương mại tuân thủ định hướng ưu tiên các lĩnh vực kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiệu quả hơn.

Vai trò của mối liên kết với chính quyền trong việc thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Trung Hậu,Nguyễn Hà Thu, Đặng Thu Thuỷ
Bản điện tử: 16/09/2025 | DOI:
Tóm tắt

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để phân tích tác động của mối liên kết với chính quyền đến hoạt động đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) tại TP.HCM. Thông qua 30 cuộc phỏng vấn bán cấu trúc với lãnh đạo SMEs, nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối liên kết này có tác động tích cực đến tất cả các hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo cơ hội cho SMEs mở rộng và phát triển kinh doanh. Nghiên cứu cũng làm rõ tác động cụ thể của mối liên kết này đến từng hoạt động đổi mới sáng tạo, đồng thời phân tích những khó khăn, thách thức, cơ hội từ mối liên kết này và nỗ lực của doanh nghiệp trong việc tiếp cận hợp đồng nhà nước. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm nâng cao mối liên kết giữa SMEs và chính quyền, góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo của SMEs thông qua hợp đồng với các cơ quan chức năng.

Tổng quan nghiên cứu về tác động của hành vi quản trị lợi nhuận qua giao dịch thực tới hiệu quả hoạt động trong tương lai của các doanh nghiệp
Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Thanh Tùng
Bản điện tử: 16/09/2025 | DOI:
Tóm tắt

Quản trị lợi nhuận qua giao dịch thực là hành vi trong đó nhà quản lý tác động đến số liệu lợi nhuận của doanh nghiệp bằng cách đưa ra các quyết định không tối ưu về thời gian và quy mô của các hoạt động kinh doanh cơ bản. Quản trị lợi nhuận qua giao dịch thực được cho là sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp, tuy nhiên một số quan điểm cho rằng quản trị lợi nhuận không nhất thiết dẫn đến sụt giảm hiệu quả hoạt động sau đó. Bài viết này nhằm tổng quan các nghiên cứu về tác động của hành vi quản trị lợi nhuận qua giao dịch thực tới hiệu quả hoạt động trong tương lai của các doanh nghiệp thông qua một số nghiên cứu đã được thực hiện trên thế giới về chủ đề này. Kết quả cho thấy các bằng chứng trái ngược về tác động của quản trị lợi nhuận tới hiệu quả hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp. Các kết quả của tổng quan sẽ góp phần giúp cho nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhìn nhận rõ về các rủi ro và lợi ích tiềm ẩn của hành vi quản trị lợi nhuận tới hoạt động của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các quyết định và chính sách hợp lý.

Quyền miễn trách nhiệm

Thông tin và nội dung được giới thiệu trong các ấn phẩm của JELB phản ánh quan điểm của tác giả và cộng sự. Vì vậy, JELB không chịu trách nhiệm đối với những sai sót và hệ quả phát sinh từ vấn đề sử dụng thông tin trong các bài viết.

JELB không chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý về sự sai sót và thiếu chính xác của các dữ liệu, thông tin, đánh giá, hay nhận định bắt nguồn từ độ tin cậy của thông tin cũng như quan điểm được thể hiện trong các bài viết.