Thông báo

Tôn chỉ & Mục đích
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng (Journal of Economic - Law and Banking - JELB) tiền thân là Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng trực thuộc Học viện Ngân hàng với hai phiên bản: Phiên bản tiếng Việt có tên là Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng, ISSN 3030-4199 và phiên bản tiếng Anh có tên là Journal of Economic and Banking Studies, ISSN 2734-9853.
Tạp chí công bố các nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn đa dạng, với ưu tiên nhưng không giới hạn ở các lĩnh vực kinh tế, luật, ngân hàng, tài chính, kinh doanh, quản lý, công nghệ và giáo dục. Tạp chí hướng tới trở thành kênh giao tiếp học thuật có uy tín trên toàn cầu và là cơ sở dữ liệu tham khảo, trích dẫn cho các nghiên cứu tương lai.
Bài viết gửi đến Tạp chí được quản lý trên hệ thống trực tuyến, phản biện kín hai chiều bởi các nhà khoa học có uy tín, cùng với quy trình xét duyệt minh bạch, chặt chẽ, đảm bảo công bố kịp thời các bài báo có chất lượng theo chuẩn quốc tế.
Tạp chí kỳ vọng nhận được các nghiên cứu với các phân tích cẩn trọng dựa trên khung lý thuyết đáng tin cậy, các bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm theo thông lệ quốc tế, và có các khuyến nghị đề xuất chính sách hoặc hàm ý quản trị cho các bên liên quan.
Các bài báo vừa xuất bản
Bài viết phân tích thực trạng nhu cầu và xu hướng mua vàng của người dân Việt Nam giai đoạn 2010–2024, dựa trên dữ liệu từ Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) và khảo sát thực tế hơn 1.000 người tiêu dùng. Kết quả cho thấy nhu cầu vàng của người dân duy trì ổn định nhưng có sự thay đổi về hình thức đầu tư do tác động của chính sách quản lý và điều kiện thị trường. Cụ thể, do nguồn cung vàng miếng bị hạn chế và giá trong nước chênh lệch cao so với thế giới, người tiêu dùng đã chuyển hướng sang mua vàng nhẫn – một sản phẩm có tính thanh khoản cao và ít bị ràng buộc bởi quy định hơn. Khảo sát cũng cho thấy phần lớn người Việt mua vàng với mục đích tích lũy tài sản hơn là đầu tư sinh lời, trong đó quyết định mua bán chủ yếu dựa trên tình hình tài chính cá nhân thay vì biến động giá vàng hay các yếu tố kinh tế vĩ mô. Đáng chú ý, nhu cầu mua vàng vẫn phổ biến ngay cả khi người tiêu dùng không dành nhiều thu nhập cho đầu tư, phản ánh niềm tin vững chắc vào giá trị của vàng như một kênh bảo toàn tài sản an toàn. Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ xu hướng tiêu dùng vàng tại Việt Nam và nhấn mạnh vai trò của chính sách quản lý trong việc điều tiết thị trường, đảm bảo sự ổn định và khả năng tiếp cận vàng cho người dân.
Tóm tắt: Trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, FinTech (Công nghệ tài chính) đã và đang trở thành xu hướng phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi cơ bản cách thức cung cấp dịch vụ tài chính trên toàn cầu. Tuy nhiên, huy động vốn vẫn là một thách thức lớn đối với các công ty FinTech, đặc biệt là tại các thị trường mới nổi như Việt Nam. Bằng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình (case study), nghiên cứu tiến hành xây dựng khung lý thuyết về công ty Fintech, vài trò và thách thức trong việc triển khai chính sách ở cấp độ chính phủ, từ đó phân tích và đánh giá chính sách của chính phủ của một số quốc gia như Mỹ, Vương quốc Anh, Singapore để hỗ trợ huy động vốn cho các công ty FinTech từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách cụ thể cho Việt Nam.
Sử dụng phương pháp tổng quan và phân tích tài liệu nghiên cứu, bài viết cung cấp khái niệm và mục đích của hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, bài viết tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về quản lý hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại tại các quốc gia bao gồm Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh và Trung Quốc. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số khuyến nghị cho Việt Nam nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng thương mại, bao gồm: (i) nâng cao vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của trái phiếu doanh nghiệp; (ii) tăng cường khung pháp lý và giám sát; (iii) nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro trong đầu tư trái phiếu doanh nghiệp; và (iv) nâng cao tính minh bạch thông tin và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi xanh trong các doanh nghiệp logistics Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 217 doanh nghiệp logistics. Các phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng gồm kiểm định độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Kết quả nghiên cứu cho thấy, Nhận thức về lợi ích của chuyển đổi xanh, Sự hợp tác với các nhà cung cấp, Các chính sách và quy định của Chính phủ và Năng lực công nghệ của doanh nghiệp là những yếu tố có tác động tích cực đến quyết định chuyển đổi xanh trong các doanh nghiệp logistics. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các khuyến nghị nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Bài viết thu thập dữ liệu từ 214 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong khoảng giai đoạn 2012- 2023. Nghiên cứu đo lường mức độ đầu tư quá mức của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và đánh giá tác động của đầu tư quá mức tới hiệu quả hoạt động tài chính công ty. Kết quả nghiên cứu chỉ ra 37,43% doanh nghiệp ở Việt Nam đang thực hiện đầu tư quá mức, tập trung ở ngành bán lẻ, du lịch và giải trí, các dịch vụ hạ tầng và y tế. Sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng tĩnh, kết quả nghiên cứu cho thấy nhất quán với lý thuyết đại diện và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan, khi chỉ ra tác động tiêu cực của đầu tư quá mức đến hiệu quả tài chính công ty. Kết quả bài viết cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà quản lý doanh nghiệp và các nhà đầu tư trên thị trường.
Quyền miễn trách nhiệm
Thông tin và nội dung được giới thiệu trong các ấn phẩm của JELB phản ánh quan điểm của tác giả và cộng sự. Vì vậy, JELB không chịu trách nhiệm đối với những sai sót và hệ quả phát sinh từ vấn đề sử dụng thông tin trong các bài viết.
JELB không chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý về sự sai sót và thiếu chính xác của các dữ liệu, thông tin, đánh giá, hay nhận định bắt nguồn từ độ tin cậy của thông tin cũng như quan điểm được thể hiện trong các bài viết.